CHÍ PHÈO
_Nam Cao_
I. HƯỚNG DẪN SOẠN BÀI
Câu 1: SGK – 142
a) Tiểu sử Nam Cao:
Nam Cao, tên khai sinh là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hoà Hậu, huyện Lí Nhân), tỉnh Hà Nam. Làng này xuất hiện nhiều trong những sáng tác của Nam Cao với cái tên Vũ Đại. Nam Cao sinh ra trong gia đình trung nông, đông con, theo đạo Thiên Chúa. Tuy không thuộc những gia đình nghèo nhất ở làng Đại Hoàng và ông thân sinh Nam Cao có thời kì làm chủ một cửa hàng gỗ ở Nam Định, nhưng gia đình Nam Cao vẫn luôn túng bấn. Trong số bảy anh em, chỉ Nam Cao là được ăn học tới nơi tới chốn. Gia đình này cũng được mô tả nhiều trong các sáng tác của Nam Cao mà rõ nét hơn cả là trong tiểu thuyết Sống mòn.
Học hết bậc Thành chung, năm 1935, Nam Cao theo người cậu vào Sài Gòn và có ý định ra nước ngoài học tập, nhưng không thành. Sau khoảng hơn ba năm, do đau ốm, ông phải về quê. Từ đó, Nam Cao phải sống vất vưởng, khi làm ông giáo trường tư, khi viết văn, làm gia sư, lúc thì phải về quê sống nhờ vợ.
Nam Cao gia nhập Hội Văn hoá cứu quốc năm 1943, khi hội này vừa được thành lập. Từ đó tới lúc hi sinh (1951), ông một lòng tận tuỵ phục vụ cách mạng và kháng chiến. Năm 1946, Nam Cao có mặt trong đoàn quân Nam tiến vào đến Nam Trung Bộ. Năm 1947, ông lên chiến khu Việt Bắc làm công tác văn nghệ và được kết nạp vào Đáng tại Bắc Cạn. Năm 1950, tham gia chiến dịch Biên Giới,... Nam Cao cùng Nguyễn Huy Tưởng đi công tác khu Ba, tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp vào vùng địch hậu. Ông có ý định thu thập thêm tài liệu để viết cuốn tiểu thuyết dang thai nghén. Nhưng Nam Cao và đoàn công tác bị địch phục kích. Nam Cao hi sinh trong chuyến đi đó.
b) Con người Nam Cao
Nam Cao là con người có bề ngoài lạnh lùng, ít nói nhưng đời sống nội tâm phong phú. Ông luôn nghiêm khắc đấu tranh với mình để thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ hẹp, vươn tới cuộc sống cao đẹp xứng đáng với danh hiệu con người. Nam Cao thường hổ thẹn với những gì mà ông cảm thấy tầm thường, thấp kém của mình.
Nam Cao là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa tình thương, đặc biệt có sự gắn bó sâu nặng với quê hương và những người nông dân nghèo khổ, bị áp bức, khinh miệt trong xã hội. Vì thế, không ít tác phẩm của Nam Cao viết về người lầm than là những thiên trữ tình đầy sự đồng cảm, xót thương. Ông hay suy nghĩ về nhiều vấn đề trong đời sống để rút ra những nhận xét có tầm triết lí sâu sắc và mới mẻ.
Tâm trạng bất hòa sâu sắc với xã hội đương thời: xã hội tàn bạo, bất công, bóp nghẹt sự sống. Nỗi phẫn uất của người tri thức có ý thức về sự sống mà không được sống.
Câu 2: SGK – 142
Ông không chạy theo cái đẹp, cái thơ mộng, quay lưng lại với hiện thực rồi viết ra những lời giả dối, phù phiếm. Có thế nói, Nam Cao là người phê phán tính chất thoát li tiêu cực của văn học lãng mạn đương thời một cách toàn diện và sâu sắc nhất. Theo ông, đó là thứ nghệ thuật "lừa dối", âm hưởng chủ đạo của nó toàn là cái "giọng sướt mướt của kẻ thất tình". Lên án văn học lãng mạn thoát li cũng có nghĩa là Nam Cao lên án quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật, khẳng định văn học hiện thực, khẳng định nghệ thuật vị nhân sinh. Nam Cao yêu cầu nghệ thuật phải gắn bó với đời sống của nhân dân lao động, "nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than" và nhà văn phải "đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời".
- Văn chương chân chính là văn chương thấm đượm lí tưởng nhân đạo, vừa mang nỗi đau nhân thế vừa có thể tiếp sức mạnh cho con người vươn đến cuộc sống nhân ái, công bằng.
- Cuộc sống phải đặt trên văn chương, văn chương phải vì con người. Nhà văn chân chính trước hết phải là con người chân chính, tức là phải có nhân cách, tấm lòng nhân đạo cao cả.
- Bản chất văn chương là sáng tạo, không chấp nhận sự rập khuôn và sự dễ dãi, không tìm tòi, sáng tạo thì không có văn chương.
Câu 3: SGK – 142
Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tâp trung chủ yếu vào hai để tài chính: Người tri thức nghèo và người nông dân nghèo.
Đề tài trí thức, đáng chú ý có các truyện ngắn Giăng sáng, Đời thừa, Những truyện không muốn viết, Mua nhà, Truyện tình, Quên điều độ, Cười, Nước mắt,… và tiểu thuyết Sống mòn.
Trong những tác phẩm này, Nam Cao đã miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội cũ, đặt ra những vấn đề có tầm triết luận sâu sắc, có ý nghĩa rất lớn vượt ra khỏi phạm vi đề tài. Họ là những trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sống và nhân phẩm, có hoài bão, có tâm huyết và tài năng, muốn xây dựng một sự nghiệp tinh thần cao quý, nhưng lại bị gánh nặng cơm áo gạo tiền và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn”, phải sống như một kẻ vô ích, một người thừa.
Không chỉ thành công trong sáng tác về tri thức, Nam Cao còn là cây bút xuất sắc khi viết về người nông dân. Ông để lại một gia tài đồ sộ viết về cuộc sống tối tăm, số phận bi thảm của người nông dân, tiêu biểu là các tác phẩm: Chí Phèo, Lão Hạc, Dì Hảo, Lang Rận, Một bữa no, Một đám cưới, Mua danh, Trẻ con không được ăn thịt chó,…Chí phèo xứng đáng là một kiệt tác.
Viết về đề tài này, Nam Cao đã dựng lên một bức tranh chân thực vể nông thôn Việt Nam nghèo xơ xác trên con đường phá sản, bần cùng, hết sức thê thảm những năm 1940 – 1945. Ông chú ý tới những con người thấp cổ bé họng, những số phận bi thảm. Họ càng hiền lành nhẫn nhục thì càng bị trà đạp tàn nhẫn, phũ phàng. Ông đi sâu vào tình cảnh, số phận của những con người bị đọa đầy vào cảnh nghèo đói, cùng đường bị hắt hủi, ..Viết về đề tài người nông dân bị đẩy vào tình trạng tha hóa lưu manh, Nam Cao đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đã hủy hoại nhân tính con người – những con người vốn có bản tính hiền lành.
Dù viết về đề tài nào thì sáng tác của Nam Cao luôn chứa đựng nội dung triết học sâu sắc, có khả năng khái quát những quy luật đời sống như vật chất, ý thức, hoàn cảnh và con người, môi trường và tính cách,…Nam Cao luôn trăn trở về vấn đề nhân phẩm, về thái độ khinh trọng đối với con người, luôn day dứt đến mức đau đớn trước tình trạng xã hội vô nhân đạo đã đọa đày con người trong đói khổ, vùi dập ước mơ, làm chết mòn đời sống tinh thần và lẽ sống cao đẹp của họ.
Câu 4: SGK – 142
Trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nam Cao là nhà văn có phong cách độc đáo. Nam Cao đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần của con người, luôn có hứng thú khám phá “con người trong con người” dù là viết về người nông dân hay trí thức. Nam Cao luôn đề cao tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên trong của con người, coi đó là nguyên nhân của những hành động bên ngoài.
Nam Cao có khuynh hướng đi vào nội tâm, đi sâu vào thế giới tinh thần của con người. Ông là nhà văn có biệt tài diễn tả, phân tích tâm lý nhân vật. Tâm lý nhân vật trở thành trung tâm chú ý, là đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao.
Nam Cao là nhà văn có giọng điệu riêng: buồn thươg chua chát, dửng dưcâung lạnh lùng mà đầy thương cảm, đằm thắm yêu thương,..
Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Sáng tác của Nam Cao đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử lại càng sáng ngời.
Sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao là cây bút tiêu biểu của văn học giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 -1954). Nhật ký Ở rừng (1948), truyện ngắn Đôi mắt (1948) là những tác phẩm tiêu biểu thời kỳ đầu kháng chiến.
II. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
- Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, có đóng góp quan trọng đối với quá trình hiện đại hóa truyện ngắn và tiếu thuyết ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
- Nam Cao là con người có quan điểm nghệ thuật xuất sắc, tiến bộ, đạt được nhiều thành tựu xuất sắc về đề tài người trí thức nghèo và người nông dân cùng khổ. Đặc biệt, ông quan tâm đến đời sống tinh thần của con người, luôn đau đớn trước tình trạng con người bị rơi vào cảnh sống mòn.
- Ông là nhà văn có phong cách độc đáo: luôn hướng tới thế giới nội tâm của con người; có biệt tài trong việc miêu tả và phân tích tâm lý, viết về những cái nhỏ nhặt hằng ngày mà đặt ra được những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, có tầm triết lý sâu sắc và có giọng văn đặc sắc.
Gợi ý Văn 11 Soạn bài Chí Phèo - phần tác giả do giáo viên Ican trực tiếp biên soạn theo chương trình mới nhất. Chúc bác bạn học tập vui vẻ.